KÝ ỨC VỀ CHA
Chuyện xãy ra cách
đây 60 năm…
Hôm ấy, anh em
tôi đang ngồi chơi cát trước ngạch cửa thì có hai người khách lạ bước vào nhà.
Một người cằm trên tay quả lựu đạn. Người kia trên vai mang khẩu súng dài (có
lẽ là cận vệ). Cha (Ba) tôi từ nhà sau bước lên chào hỏi hai người. Ba người
ngồi uống nước trà và nói chuyện quanh chiếc bàn bằng gỗ kê giữa nhà. Còn nhỏ
quá, anh em tôi chưa đủ hiểu Ba tôi và hai người khách lạ ấy nói gì. Nhưng có
điều theo cảm tính của trẻ con, tôi biết hai người khách đó là “cán bộ nằm
vùng” của “Việt Cộng”, là người “bên mình”. Câu chuyện giữa ba người diễn ra
khá lâu. Hình như Ba tôi và hai người khách đang “đôi co” chuyện gì ấy. Anh em
tôi vẫn mãi mê với trò chơi cát. Bổng tôi giật mình nghe tiếng vỗ bàn “Rầm” ! Anh em tôi lấm lét quay mặt vào
nhà thấy người cằm trên tay quả lựu đạn đứng lên nhìn thẳng vào Ba tôi vẽ mặt
giận dữ nói:
- Tại sao anh
không cho tôi đánh giặc !
Nói đoạn, người
cằm lựu đạn lẹ làng bước mau ra khỏi nhà. Người mang súng cũng bước mau ra khỏi
nhà. Cả hai người khách lạ biến vào đám cây rậm rạp như rừng ở phía trước. Tuy
mới sáu, bảy, tuổi đầu, nhưng thái độ giận dữ của người khách lạ ấy đã gieo vào
lòng tôi một sự lo lắng thật sự. Không biết chuyện không lành gì đây sẽ đến với
Ba tôi giữa thời ly loạn này.
Ba tôi vừa bị
lính Ngô Đình Diệm bắt cằm tù tại Khám lớn Trà Vinh và nhà tù Phú Lợi (di tích lịch sử cấp quốc gia thuộc tỉnh
Bình Dương ngày nay) vì Ba tôi “chống
lệnh nhà binh” không đi cu ly làm sân máy bay Long Toàn khi đứa em tôi mới
biết đứng chựng. Đêm hốm ấy, cả xóm tôi người dân đánh trống mõ dậy trời. Tờ mờ
sáng, lính bảo an quận đến bao nhà. Ba tôi vừa mở cửa bước ra thì lập tức bị mấy
mũi súng chĩa vào hông, lên đạn rôm rốp. Người lính đứng sau thúc mũi súng vô lưng
Ba tôi, nạt:
- Đi !
Má đem cơm cho
Ba về nói Ba với mấy chục người nữa bị lính quận bắt ngồi phơi nắng ngoài chổ
làm sân máy bay Long Toàn. Chiều tối, mọi người được thả về. Ba tôi và một
người nữa cùng xóm bị giặc giải về Khám lơn Trà Vinh. Má đi thăm nuôi được gần
năm thì Ba bị đày ra nhà tù Phú Lợi. Sau 18 tháng bị giam cầm, Ba tôi được giặc
thả về khi đứa em mới đứng chựng của tôi được gần ba tuổi. Nay lại có chuyện
lấn cấn gì đây với mấy người “cán bộ nằm vùng” ?... Ba tôi có bị “bên mình”
nghi ngờ khai báo gỉ lúc bị tù đày không ? Trước chuyện không bình thường này
của người lớn làm tôi lo sợ!
Một chuyện xui
rũi nữa lại tiếp tục xãy ra – Sau đó không lâu, ngày 28/9/1960, Ba tôi bị lính
Bảo an bảo vệ công trình xây dựng sân máy bay Long Toàn bắn chết tại ấp Giồng
Trôm, xã Long Toàn…
Trưa hôm ấy, cô
Sáu (Trần Thị Đáng – em ruột của Ba tôi ở ấp Giồng Giếng) đến nhà. Tôi đang đưa
đứa em ngũ trên chiếc võng làm bằng dây bố. Vừa bước vào nhà, cô Sáu vừa giỡ
chiếc nón lá ra, nước mắt cô ràn rụa nói:
- Ba con bị lính
bắn chết rồi. Má con đi ra dinh quận xin thây – Nói đoạn, cô Sáu xốc đứa em
đang ngũ trên võng bồng (bế) lên tay. Mấy anh em tôi ré khóc. Từ trưa hôm đó,
cô Sáu ở lại nhà vừa khóc, vừa dỗ anh em tôi cho đến ngày hôm sau.
Sau khi bắn chết
Ba tôi, bọn lính ngụy bắt mấy người thanh niên gần đó lấy xác ba tôi để trên
chiếc võng khiêng lũng lẵng về Chi khu quân sự Long Toàn báo công với quận
trưởng. Ra tới dinh quận, Má tôi lạy lục van xin thế nào Chi khu cũng không cho
và nói: “Thằng này là Việt Cộng nằm
vùng”. Má tôi năn nĩ:
- Xin mấy ông
thương tình, chồng tôi đi thăm lúa ở Giồng Trôm bị lính mấy ông bắn lầm thôi
chớ không phải Việt Cộng đâu mấy ông à.
Lời năn nĩ của
Má tôi bị bọn Chu Khu Long Toàn gạt bỏ ngoài tai. Trời chiều dần. Da trên người
Ba tôi bắt đầu lột tuột ra do bị phơi nắng. Má tôi chợt nhớ: Láng giềng với Bà
ngoại tôi ở ấp Bến Chuối có người tôi gọi là Bác Năm. Ông ấy có người con trai
đi lính tại Chi khu này, anh ta rất ác ôn nên rất có uy tín với bọn chỉ huy.
Thế là Má tôi băng đồng lội bộ đến gặp Bác Năm nhờ con trai mình nói giúp. Dính gai thì phải lấy gai mà lể - Má
nghĩ vậy.
Nhờ có sự nói
giúp của Bác Năm mà Má tôi xin được xác Ba đem về chôn cất ngay trong đêm đó
tại ấp Giồng Giếng, cách nhà chừng ba bốn cây số. Khuya lắm Má tôi mới về đến
nhà. Má mệt lã người, dóc dáng xộc xệch mềm nhũng, Má khóc rũ rượi. Kể từ hôm
ấy, cứ mỗi lần thức giấc tôi đều nghe tiếng Má tôi khóc rấm rức trong đêm tối
dày đặc bao phủ căn nhà lá. Trên bàn thờ tang Ba tôi, khói nhang quấn quít
quanh ngọn đèn dầu leo lét. Má tôi, người phụ nữ mới bước vào tuổi ba mươi phải
sống trong cảnh góa chồng, một mình đùm bọc đàn con trong đói nghèo và chiến
tranh bom đạn. Anh em chúng tôi bị mồ côi cha từ đó và cũng như những người
trong xóm đều hiễu rằng Ba tôi đi thăm lúa bị lính chi khu bắn chết (mặc dù gia đình tôi chưa có ruộng đất ở chổ
đó bao giờ). Thái độ gay gắt, khó hiễu của người cán bộ nằm vùng với Ba tôi
hôm ấy đeo đẵng tôi một câu hỏi: Ba tôi là người như thế nào…suốt 37 năm!...Lúc
bấy giờ, mặc dù là cán bộ có chức phận của một cơ quan báo chí ở địa phương,
nhưng những điều uẩn khúc trong cuộc đời của Ba, với tôi vẫn còn nhiều điều
chưa hiễu. Má tôi, sau khi Ba chết, Má tham gia rất cần mẫn công tác đoàn thể phục
vụ hậu cần quân đội ở địa phương. Giai đoạn 1968 – 1971, Má là Chi ủy viên,
trưởng Ban Cán sự phụ nữ xã (như Chủ tịch
Hội Liên hiệp phụ nữ xã bây giờ), nhưng tuyệt nhiên tôi cũng không nghe Má
nói gì về cái chết của Ba !
Một hôm, vào
khoảng giữa năm 1997, Má tôi kêu đến bảo:
-
Con đi làm giấy liệt sĩ cho Ba.
-
Sao hồi đó tới giờ con không nghe Má nói chuyện này ?
Thấy tôi do dự,
Má tôi bảo:
- Con đến gặp
Chú Ba Mè (Võ Văn Khoái) và Bác Hai Nhâm (Trần Đạt Nhâm), hai người đó kể cho
con nghe trường họp Ba con hy sinh để con làm cho Ba tấm Bằng chứng nhận liệt
sĩ.
Tôi mừng quá.
Bao nhiêu uẩn khúc về Cha luôn vằng vặc tôi suốt 37 năm qua có thể sẽ được giải
tỏa từ đây. Tôi cằm bộ hồ sơ khai báo về liệt sĩ cùng đứa con trai đầu lòng lặn
lội đi gặp Chú Ba Mè ở Phước Trị và Bác Hai Nhâm ở Giồng Trôm cùng xã để cho nó
được trực tiếp nghe kể về trường họp hy sinh của ông nội. Nghe tôi hỏi trường
họp chết của Ba, Chú Ba Mè và Bác Hai Nhâm đều trách:
- Trời đất, sao
tới giờ mới hỏi chuyện này. Tao tưởng mày đã làm giấy liệt sĩ cho Ba mày xong
từ lâu rồi chớ …
Qua câu chuyện
của Chú Ba Mè và Bác Hai Nhâm kể về Ba, tôi được biết lúc chết Ba tôi là Trưởng
Ban cán sự Thanh Niên xã Long Toàn (chức
vụ như Bí thư Chi Đoàn xã bây giờ). Trường họp chết của Ba tôi được Chú Ba
Mè và Bác Hai Nhâm chấp nối lại: Cuộc nổi dậy đồng khởi ngày 14/9/1960, xã Long
Toàn không được giải phóng nhưng xã đã làm tốt vai trò cầm chân bọn bảo an Chi
khu quân sự Long Toàn, tạo cơ hội cho du kích và nhân dân các xã khác trong
huyện nổi dậy gở đồn bót địch tự giải phóng xã. Phong trào đồng khởi đang sôi
sục dâng trào đúng hai tuần thì ông Nguyễn Văn Tất – Đầu tàu xã (Bí Thư Chi bộ xã) cho mời các trưởng
đầu ngành xã về căn cứ rửng Giồng Trôm họp gắp để uốn nắn phong trào, chỉ đạo
phát động nhân dân cùng du kích xã tiếp tục đẩy mạnh đồng khởi, cầm chân bảo an
Chi khu của địch hỗ trợ phong trào đồng khởi chung toàn huyện. Họp xong, Ba tôi
đi tắt đồng từ Giồng Trôm qua Đường Khai (ấp
Giồng Giếng xã Long Toàn bây giờ) để về nhà, tránh sự theo dõi của lính đồn
Đường Khai đang đóng tại đầu Giồng Bà Phó thì bị tốp lính bảo vệ công trình xây
dựng sân máy bay Long Toàn đón đường bắn chết trên ruộng lúa, cách bìa rừng
Giồng Trôm chừng hơn trăm thước.
Biết được trường
họp hy sinh của Ba, nổi suy tư về Ba trong tôi mấy chục năm qua đã được giải
tỏa. Nhân cơ hội này, tôi nhắc đến thái độ gay gắt của người cán bộ nằm vùng có
vũ trang với Ba tôi năm đó, Bác Hai Nhâm giải thích:
- Chuyện đó như
thế này nè, trước đồng khởi 14/9/1960, giặc khủng bố phong trào cách mạng mình
gắt gao lắm. Cả huyện mình lúc đó ngày nào cũng có người sa vào tay giặc bị
chúng bắn giết hoặc tù đày, dân chúng rất hoang mang. Nhân dân tự rèn vũ khí
rồi vô rừng tìm cán bộ đòi được giết giặc, nhưng Huyện ủy chưa cho vì còn phải
chuẫn bị thời cơ cho đại sự, đồng khởi 14 tháng 9 đó. Lúc này ai nôn nóng đánh
giặc đều bị Chi bộ phê bình là “manh
động”. Tội manh động lúc đó nặng lắm, thằng cháu mầy không biết đâu.
- Manh động là sao vậy hen chú – Tôi thật thà hỏi, chú Ba Mè, chú giải thích:
- Manh động lúc đó được hiểu là việc làm của kẻ lưu manh, không theo tổ chức kỷ luật nào, hoặc là việc làm manh mún, tự phát, không theo tổ chức kỷ luật nào. Hôm ấy có thể có người dân cùng anh em võ trang xã đến gặp Ba cháu đòi đón đánh bọn lính dân vệ xã Long Toàn lên ấp mình tìm bắt cán bộ nằm vùng nhưng anh ấy ngăn cản không cho là theo ý chỉ đạo của đồng chí đầu tàu xã. Anh em võ trang chưa thông nên gay gắt với anh ba vậy thôi.
- Manh động là sao vậy hen chú – Tôi thật thà hỏi, chú Ba Mè, chú giải thích:
- Manh động lúc đó được hiểu là việc làm của kẻ lưu manh, không theo tổ chức kỷ luật nào, hoặc là việc làm manh mún, tự phát, không theo tổ chức kỷ luật nào. Hôm ấy có thể có người dân cùng anh em võ trang xã đến gặp Ba cháu đòi đón đánh bọn lính dân vệ xã Long Toàn lên ấp mình tìm bắt cán bộ nằm vùng nhưng anh ấy ngăn cản không cho là theo ý chỉ đạo của đồng chí đầu tàu xã. Anh em võ trang chưa thông nên gay gắt với anh ba vậy thôi.
Thay lời Má, tôi
cảm ơn Chú Ba Mè, Bác Hai Nhâm và từ giả ra về. Ngày 18 tháng 7 năm sau, Ba tôi
được Thủ tướng Chính phủ công nhận là liệt sĩ.
Niềm an ủi đến
với Má tôi trong chóng vánh. Hai năm sau ngày được công nhận là vợ liệt sĩ, Má
tôi đã qua đời! Trần Văn Điền
(Khóm 2, Phường 2, thị xã Duyên Hải)